Đồng (đơn vị tiền tệ)

Đồng (đơn vị tiền tệ)
â‚«
Đồng (Mã giao dịch quốc tế: VND, ký hiệu: ₫ hoặc đ) là đơn vị tiền tệ của Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành.

Theo luật pháp hiện hành của Việt Nam, Đồng Việt Nam là phương tiện thanh toán pháp quy duy nhất tại Việt Nam, nghĩa là hàng hóa hay dịch vụ tại thị trường Việt Nam phải được niêm yết giá trị giao dịch bằng Đồng, người nhận tiền không được phép từ chối các tờ tiền đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định lưu hành bất kể mệnh giá (theo điều 23), và người trả tiền không được phép thanh toán ép buộc bằng các phương thức giao dịch khác (bao gồm các loại tiền tệ khác như Đô la Mỹ hay những vật thể không phải tiền). Một Đồng có giá trị bằng 10 hào, một hào chia nhỏ thành 10 xu. Hai đơn vị xu và hào vì lạm phát nên không còn được lưu hành nữa.

Tiền giấy được lưu hành hiện nay có các mệnh giá: 100₫, 200₫, 500₫, 1000₫, 2000₫, 5000₫, 10.000₫, 20.000₫, 50.000₫, 100.000₫, 200.000₫ và 500.000₫. Hiện nay, thói quen làm tròn và không tiết kiệm mệnh giá nhỏ của người Việt khiến tờ 100₫ và 200₫ hiếm khi xuất hiện để tiêu thụ, với tờ 500₫ và 1000₫ cũng đang phải đối mặt với tình trạng tương tự. Tiền kim loại (tiền xu) có các mệnh giá 200₫, 500₫, 1000₫, 2000₫ và 5000₫; do lạm phát nên không còn được đúc nữa, tuy nhiên vẫn có thể giao dịch hợp pháp bằng xu. Các tờ tiền giấy mệnh giá 10.000₫, 20.000₫, 50.000₫, 100.000₫ đã được thay thế bằng các đồng tiền polymer với mệnh giá tương ứng.

Tính đến tháng 5 năm 2021, Việt Nam Đồng là đơn vị tiền tệ đứng thứ ba trong những loại tiền tệ có giá trị thấp nhất trên thế giới (sau bolivar của Venezuela và rial của Iran thấp nhất thế giới), với một Đô la Mỹ tương đương với khoảng 24.000 đồng.

Tiền kim loại ở Việt Nam thời xưa thường làm bằng đồng, tiền đồng trong Hán văn được gọi là "đồng tiền" (chữ Hán: 銅錢). Từ thời Pháp thuộc đến nay "đồng" (銅) từ chỗ vốn là tên gọi của một thứ kim loại đã trở thành đơn vị tiền tệ chính thức ở Việt Nam, không phân biệt chất liệu làm nên tiền là gì.

Đơn vị tính toán của tiền Việt Nam thời phong kiến là "văn" (文), "mạch" (陌), "mân" (緡), "cưỡng" (繦, còn được viết là 鏹), "quán" (貫). Tiền kim loại khi dùng đơn độc được gọi là "văn". Chúng thường có lỗ ở giữa. Khi cần dùng nhiều văn người ta thường xỏ dây qua cái lỗ trên các văn tạo thành một xâu văn. Khi số lượng văn trên xâu văn đạt đến một số lượng nhất định nào đó tuỳ theo quy định của từng thời mà xâu văn ấy sẽ được gọi là "bách", "mân", "cưỡng", "quán".

Vì trên tiền có văn tự cho nên được gọi là "văn tiền" (文錢). Chữ "văn" 文 ở đây cũng như chữ "đồng" 銅 trong "đồng tiền" 銅錢 đã được tách ra dùng như một lượng từ để đo đếm tiền.

"Mạch" 陌 là dạng viết đại tả của chữ "bách" 百 có nghĩa là một trăm được mượn dùng để chỉ một trăm văn nhưng về sau không phải lúc nào bách cũng đúng bằng một trăm văn.

"Mân" 緡, "cưỡng" 繦/鏹, "quán" 貫 ban đầu là chỉ cái dây xâu tiền, được dẫn thân làm đơn vị đo đếm tiền.

Các bản dịch tiếng Việt hiện nay của cổ tịch Hán văn Việt Nam thường chuyển các tên gọi "văn", "bách", "mân", "cưỡng", "quán" sang các đơn vị tiền tệ quen dùng ở Việt Nam thời hiện đại, "văn" bị gọi là "đồng", "bách" gọi là "tiền", "cưỡng", "mân", "quán" gọi là "quan" (biến âm của "quán" 貫), gây ngộ nhận cho người đọc về đơn vị tiền tệ của Việt Nam thời xưa.
Quốc gia