Sân bay quốc tế Quần đảo Marshall (Amata Kabua International Airport)
Sân bay quốc tế Quần đảo Marshall (IATA: MAJ, ICAO: PKMJ, FAA LID: MAJ), cũng gọi là Sân bay quốc tế Amata Kabua, là một sân bay ở Majuro, thủ đô của Cộng hòa Quần đảo Marshall. Sân bay này được xây dựng sau thế chiến II (1943) và thay thế một sân bay nằm trên khu vực san hô tại đảo Dalop (cuối phía đông đảo Majuro) được xây dựng bởi người Nhật đang chiếm đóng (và tù nhân của họ) vào năm 1942. ,
Một loạt các cấu trúc tầng đơn (các hanger nhỏ) tạo thành nhà ga sân bay. Không có cấu trúc vật lý tồn tại ở sân bay trước thập niên 1970. Cơ cấu nhà ga hiện tại và đường băng hiện/sân đỗ hiện đại đã được xây dựng vào năm 1971 Hành khách từ các chuyến bay đến sân bay này sử dụng các cầu thang sử dụng sân bay để ra khỏi máy bay và đi bộ đến nhà ga.
Sân bay này có khả năng xử lý tất cả các máy bay cánh quạt đẩy, động cơ cánh quạt, máy bay phản lực công vụ và giữa máy bay phản lực cỡ vừa và nhỏ (ví dụ, Boeing 737, Boeing 727), nhưng nó có thể phục vụ Boeing 767.
Thể loại:Sân bay Quần đảo Marshall
Một loạt các cấu trúc tầng đơn (các hanger nhỏ) tạo thành nhà ga sân bay. Không có cấu trúc vật lý tồn tại ở sân bay trước thập niên 1970. Cơ cấu nhà ga hiện tại và đường băng hiện/sân đỗ hiện đại đã được xây dựng vào năm 1971 Hành khách từ các chuyến bay đến sân bay này sử dụng các cầu thang sử dụng sân bay để ra khỏi máy bay và đi bộ đến nhà ga.
Sân bay này có khả năng xử lý tất cả các máy bay cánh quạt đẩy, động cơ cánh quạt, máy bay phản lực công vụ và giữa máy bay phản lực cỡ vừa và nhỏ (ví dụ, Boeing 737, Boeing 727), nhưng nó có thể phục vụ Boeing 767.
Thể loại:Sân bay Quần đảo Marshall
IATA Code | MAJ | ICAO Code | PKMJ | FAA Code | |
---|---|---|---|---|---|
Điện thoại | Fax | Thư điện tử | |||
Home Page |
Bản đồ - Sân bay quốc tế Quần đảo Marshall (Amata Kabua International Airport)
Bản đồ
Quốc gia - Quần đảo Marshall
Quốc kỳ Quần đảo Marshall |
Người Micronesia đến định cư tại Quần đảo Marshall vào khoảng thiên niên kỷ 2 TCN, họ sử dụng bản đồ bằng que truyền thống. Người châu Âu biết đến nơi này từ thập niên 1520, khi nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Alonso de Salazar trông thấy một rạn san hô ở đây năm 1526. Những chuyến viễn chinh của người Anh và người Tây Ban Nha tiếp diễn sau đó. Quần đảo được đặt theo tên nhà thám hiểm người Anh John Marshall, người đã đến đây năm 1788. Người Marshall gọi nơi mình sống là "jolet jen Anij" (Những món quà của Chúa).
Tiền tệ / Language
ISO | Tiền tệ | Biểu tượng | Significant Figures |
---|---|---|---|
USD | Đô la Mỹ (United States dollar) | $ | 2 |
ISO | Language |
---|---|
MH | Tiếng Marshall (Marshallese language) |